Mộ quá sơn thôn Nguyên tác: Giả Đảo

Mộ quá sơn thôn
Nguyên tác: Giả Đảo
暮过山村

贾岛
数里闻寒水, 山家少四邻。 
怪禽啼旷野, 落日恐行人。 
初月未终夕, 边烽不过秦。 
萧条桑柘外, 烟火渐相亲

CHỮ PHỒN THỂ

暮過山村
賈島
數里聞寒水, 山家少四鄰。
怪禽啼曠野, 落日恐行人。
初月未終夕, 邊烽不過秦。
蕭條桑柘外, 煙火漸相親。

PHIÊN ÂM
Mùguò shāncūn
Jiǎdǎo
Shù lǐ wén hánshuǐ, shān jiā shǎo sìlín.
Guài qín tí kuàngyě, luòrì kǒng xíngrén.
Chū yuè wèi zhōng xī, biān fēng bùguò qín.
Xiāotiáo sāng zhè wài, yānhuǒ jiàn xiāngqīn.

ÂM HÁN VIỆT
Sổ lý văn hàn thủy, sơn gia thiểu tứ lân
Quái cầm đề khoáng dã, lạc nhật khủng hành nhân
Sơ nhật vị chung tịch, biên phong bất quá Tần
Tiêu điều tang chá ngoại, yên hỏa tiệm tương thân


--Dịch nghĩa:--

Buổi Chiều Đi Qua Xóm Núi

Tiếng nước suối lạnh nghe  róc rách đã vài dặm đường ;
nhà ở miền núi ít có hàng xóm bốn bên.
Chim lạ kêu trong đồng hoang bao la ;
chiều xuống làm bộ hành lo lắng, sợ hãi
Trời chưa tối hẳn đã thấy trăng non mọc ;
đài canh lửa ở biên giới không ra khỏi đất Tần.
Dâu nuôi tằm mọc xơ xác ;
noi theo khói bếp và ánh lửa đèn đến làm quen để xin trọ qua đêm
 CHÚ THÍCH VÀ TỪ VỰNG:
鄰 lân (15n) 1 : Láng giềng. Ngày xưa cứ năm nhà ở một khu gọi là lân, các nhà ở gần nhà mình đều gọi là lân. Như trạch lân 擇鄰 chọn láng giềng, nước ở gần với nước mình gọi là lân quốc 鄰國 nước láng giềng. 2 : Gần kề, tới. Như người sắp chết gọi là dữ quỷ vi lân 與鬼爲鄰 gần kề với ma. 3 : Kẻ giúp đỡ hai bên tả hữu.
少 thiểu, thiếu (4n) 1 : Ít. 2 : Tạm chút. Như thiểu khoảnh 少頃 tí nữa.
 聞 văn, vấn, vặn (14n) 1 : Nghe thấy. Như phong văn 風聞 mảng nghe, truyền văn 傳聞 nghe đồn, v.v. Thân tới tận nơi để nghe gọi là dự văn 預聞. 2 : Trí thức. Phàm học thức duyệt lịch đều nhờ tai mắt mới biết, cho nên gọi người nghe nhiều học rộng là bác học đa văn 博學多聞. Gọi người nghe rộng nhớ dai là bác văn cường chí 博聞強識. Gọi người hẹp hòi nghe ít là cô lậu quả văn 孤陋寡聞.(Gūlòuguǎwén)
 曠野: Khoáng dã: đồng ruộng.
啼 đề (11n) 1 : Kêu khóc. 2 : Hót. Như oanh đề 鶯啼 chim vàng anh hót. 落日: lạc nhật: mặt trời lặn
恐 khủng, khúng (10n) 1 : Sợ. 2 : Dọa nạt.行人:hành nhân: khách bộ hành, khách qua đường

烽(邊烽) Biên phong, là hệ thống các đài canh giặc nơi biên ải, thời cổ xưa (Đường) thiết lập trên núi, liên lạc với nhau bằng cách đốt lửa báo hiệu. Đài đầu tiên thấy giặc xâm nhập lập tức nổi lửa. Đài kế tiếp thấy lửa bèn nổi lửa theo ; cứ như vậy, tin giặc xâm nhập được bộ chỉ huy nhận mau chóng để kịp thời phản công chống giặc.
 Tần, tên nước cũ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nay là tỉnh Thiểm Tây.  

蕭條: tiêu điều phong cảnh buồn tênh.

柘 chá, giá (9n) 1 : Cây chá, một thứ cây giống như cây dâu dùng chăn tằm được.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--

Tiếng suối lạnh nghe đà vài dặm
Nhà trên non không lắm xóm giềng
Đồng hoang chim lạ kêu riêng
Bộ hành lo lắng chiều nghiêng bóng rồi
Chưa tối hẳn trăng thời đã mọc
Đài biên phòng không vượt đất Tần
Vườn dâu xơ xác thanh bần
Noi theo lửa bếp tới gần làm quen

--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--

Nghe reo suối lạnh dặm trường
Miền núi xóm giềng rải rác
Chim lạ kêu đồng bát ngát
Bộ hành lo bóng chiều buông.
Trời tối xuống trăng non nhạt
Đồn biên giới chẳng rời Tần
Dâu nuôi tằm vườn xơ xác
Tìm gần bếp lửa làm thân.

Bản dịch của Trần Minh Tú



Buổi Chiều Đi Qua Xóm Núi



Vài dặm còn thấy suối reo

Nhà nơi xóm núi vắng teo bốn bề

Chim kêu đồng trống não nề

Mặt trời xuống núi, sợ ghê chốn này

Trăng non, bóng tối chưa dày

Lửa canh biên giới chẳng bay quá Tần

Vườn dâu xơ xác thanh bần

Nương theo khói bếp làm thân trọ nhờ

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số cách tính điện trở tương đương (sưu tầm)

Bài toán chuyển động trên một vòng tròn

Bài tập liên hệ giữa định luật bảo toàn công, động cơ nhiệt và công suất