Nam hải lữ thứ
Nguyên tác: Tào Tùng
Tào Tùng 曹松 (830-?) tự Mộng Trưng 夢徵, người Thư Châu 舒州, học thơ Giả Đảo
賈島 南海旅次
曹松
忆归休上越王台, 归思临高不易裁。
为客正当无雁处, 故园谁道有书来。
城头早角吹霜尽, 郭里残潮荡月回。
心似百花开未得, 年年争发被春催。
CHỮ PHỒN THỂ
曹松
憶歸休上越王台, 歸思臨高不易裁。
為客正當無雁處, 故園誰道有書來。
城頭早角吹霜盡, 郭裡殘潮盪月回。
心似百花開未得, 年年爭發被春催。
PHIÊN ÂM
Cáo sōng
Yì guī xiū shàngyuè wáng tái, guī sī lín gāo bùyì cái.
Wèi kè zhèngdàng wú yàn chù, gùyuán shuí dào yǒu shū lái.
Chéng tóu zǎo jiǎo chuī shuāng jǐn, guō li cán cháo dàng yuè huí.
Xīn sì bǎihuā kāi wèi de, nián nián zhēng fā bèi chūn cuī.
Âm Hán Việt
ức quy hưu thướng Việt Vương Đài, quy tư lâm cao bất dị tài
Vi khách chính đương vô nhạn xứ, cố viên thùy đạo hữu thư lai
Thành đầu tảo giốc xuy sương tận, quách lí tàn triều đãng nguyệt hồi
Tâm tự bách hoa khai vị đắc, niên niên tranh phát bị xuân thôi
Dịch nghĩa:
想家的日子千万莫要登上越王台,
登到高处时思归的愁绪就难以裁断!
在这连大雁也飞不到的天涯 海角作客异乡,
哪里会有家书寄来?
当早晨的号角在城头吹起,秋霜渐已消尽;
在清冷的月光下, 郭里残余的潮水慢慢退回。
这归心,就像尚未开放的百花,
年年都要竞相绽放,只等那春风轻轻一催。
Dịch nghĩa: Hôm nhớ nhà thì đừng trèo lên đài Việt Vương, lên cao càng làm cho nỗi sầu nhớ nhà thêm da diết, khó khống chế tinh thần
Ở nơi đất khách quê người (Nam Hải) (nơi chân trời góc bể này đây) đến một cánh nhạn cũng chẳng nhìn thấy (tác dụng vận dụng truyền thuyết Hồng Nhạn không bay quá Hành Sơn nên quay lại Nhạn Phong ý nói khoảng cách từ quê nhà đến Nam Hải quá xa xôi) khó có hi vọng nhận được thư nhà
Đang lúc sáng sớm tinh mơ, nơi đầu thành nghe có tiếng tù và báo hiệu, sương thu cũng dần tan biến (mặt trời nhô dần lên)
Dưới ánh trăng trong, mát, ngoại thành, thủy triều còn sót lại đang rút từ từ
Tấm lòng muốn về quê này giống như trăm hoa (đang còn nụ, chưa nở), năm nào cũng đua nhau kheo sắc, chỉ chờ gió xuân đẩy nhẹ
Ở đây so sánh tình cảm nhớ quê của nhà thơ với những bông hoa, bình thường đã nhớ nhưng đặc biệt khi xuân về, nỗi nhớ thương quê hương càng tha thiết hơn. Tất cả đều bị động (hoa chưa muốn nở nhưng vì gió xuân thúc cũng nở, người cũng vì xuân mà càng da diết). Trong cái chung lại có cái riêng: Hoa thì khoe sắc rực rõ tươi vui, nhưng nhà thơ thì lại càng buồn
CHÚ Ý: hưu—xiu 休:hay dùng với nghĩa đừng...休想:đừng nghĩ (từ bỏ ý định), xiu shang: hưu thướng 休上:đừng lên, (chữ thượng có hai cách đọc, thượng và thướng, ở đây dùng như động từ đọc là thướng)
Dịch thơ Trần Minh Tú
Nhớ nhà, tránh Việt Vương Đài
Lên cao càng nhớ, chẳng phai tình sầu
Cánh nhạn còn chẳng thấy đâu
Quê người đất khách khó cầu thư qua
Đầu thành vang tiếng tù và
Sương thu tan hết, trời đà nhô lên
Ngoại thành dưới ánh trăng đêm
Thủy triều còn sót, rút thêm dần dần
Tình như hoa giữa tiết xuân
Gió khiến hoa nở, riêng thân ta buồn
Nguyên tác: Tào Tùng
Tào Tùng 曹松 (830-?) tự Mộng Trưng 夢徵, người Thư Châu 舒州, học thơ Giả Đảo
賈島 南海旅次
曹松
忆归休上越王台, 归思临高不易裁。
为客正当无雁处, 故园谁道有书来。
城头早角吹霜尽, 郭里残潮荡月回。
心似百花开未得, 年年争发被春催。
CHỮ PHỒN THỂ
曹松
憶歸休上越王台, 歸思臨高不易裁。
為客正當無雁處, 故園誰道有書來。
城頭早角吹霜盡, 郭裡殘潮盪月回。
心似百花開未得, 年年爭發被春催。
PHIÊN ÂM
Cáo sōng
Yì guī xiū shàngyuè wáng tái, guī sī lín gāo bùyì cái.
Wèi kè zhèngdàng wú yàn chù, gùyuán shuí dào yǒu shū lái.
Chéng tóu zǎo jiǎo chuī shuāng jǐn, guō li cán cháo dàng yuè huí.
Xīn sì bǎihuā kāi wèi de, nián nián zhēng fā bèi chūn cuī.
Âm Hán Việt
ức quy hưu thướng Việt Vương Đài, quy tư lâm cao bất dị tài
Vi khách chính đương vô nhạn xứ, cố viên thùy đạo hữu thư lai
Thành đầu tảo giốc xuy sương tận, quách lí tàn triều đãng nguyệt hồi
Tâm tự bách hoa khai vị đắc, niên niên tranh phát bị xuân thôi
Dịch nghĩa:
想家的日子千万莫要登上越王台,
登到高处时思归的愁绪就难以裁断!
在这连大雁也飞不到的天涯 海角作客异乡,
哪里会有家书寄来?
当早晨的号角在城头吹起,秋霜渐已消尽;
在清冷的月光下, 郭里残余的潮水慢慢退回。
这归心,就像尚未开放的百花,
年年都要竞相绽放,只等那春风轻轻一催。
Dịch nghĩa: Hôm nhớ nhà thì đừng trèo lên đài Việt Vương, lên cao càng làm cho nỗi sầu nhớ nhà thêm da diết, khó khống chế tinh thần
Ở nơi đất khách quê người (Nam Hải) (nơi chân trời góc bể này đây) đến một cánh nhạn cũng chẳng nhìn thấy (tác dụng vận dụng truyền thuyết Hồng Nhạn không bay quá Hành Sơn nên quay lại Nhạn Phong ý nói khoảng cách từ quê nhà đến Nam Hải quá xa xôi) khó có hi vọng nhận được thư nhà
Đang lúc sáng sớm tinh mơ, nơi đầu thành nghe có tiếng tù và báo hiệu, sương thu cũng dần tan biến (mặt trời nhô dần lên)
Dưới ánh trăng trong, mát, ngoại thành, thủy triều còn sót lại đang rút từ từ
Tấm lòng muốn về quê này giống như trăm hoa (đang còn nụ, chưa nở), năm nào cũng đua nhau kheo sắc, chỉ chờ gió xuân đẩy nhẹ
Ở đây so sánh tình cảm nhớ quê của nhà thơ với những bông hoa, bình thường đã nhớ nhưng đặc biệt khi xuân về, nỗi nhớ thương quê hương càng tha thiết hơn. Tất cả đều bị động (hoa chưa muốn nở nhưng vì gió xuân thúc cũng nở, người cũng vì xuân mà càng da diết). Trong cái chung lại có cái riêng: Hoa thì khoe sắc rực rõ tươi vui, nhưng nhà thơ thì lại càng buồn
CHÚ Ý: hưu—xiu 休:hay dùng với nghĩa đừng...休想:đừng nghĩ (từ bỏ ý định), xiu shang: hưu thướng 休上:đừng lên, (chữ thượng có hai cách đọc, thượng và thướng, ở đây dùng như động từ đọc là thướng)
Dịch thơ Trần Minh Tú
Nhớ nhà, tránh Việt Vương Đài
Lên cao càng nhớ, chẳng phai tình sầu
Cánh nhạn còn chẳng thấy đâu
Quê người đất khách khó cầu thư qua
Đầu thành vang tiếng tù và
Sương thu tan hết, trời đà nhô lên
Ngoại thành dưới ánh trăng đêm
Thủy triều còn sót, rút thêm dần dần
Tình như hoa giữa tiết xuân
Gió khiến hoa nở, riêng thân ta buồn
Nhận xét
Đăng nhận xét
Các bạn ghé thăm nhà Minh Tú có thể dùng mã code dưới đây để chèn nguồn từ bên ngoài vào comment:
Link : <a href="Link URL">CLICK HERE </a>
Hình ảnh : [img]Link hình ảnh URL[/img]
Youtube clip : [youtube]Link video từ yotube[/youtube]
Nhaccuatui : [nct]Link nhạc từ Nhaccuatui[/nct]