Bả tửu vấn nguyệt

Nguyên tác: Lý Bạch

把酒問月

李白

 
青天有月來幾時,我今停杯一問之。
人攀明月不可得,月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,今月曾經照古人。
古人今人若流水,共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,月光常照金樽裡。 


CHỮ GIẢN THỂ
青天有月来几时,我今停杯一问之。
人攀明月不可得,月行却与人相随。
皎如飞镜临丹阙,绿烟灭尽清辉发。
但见宵从海上来,宁知晓向云间没。
白兔捣药秋复春,嫦娥孤栖与谁邻。
今人不见古时月,今月曾经照古人。
古人今人若流水,共看明月皆如此。
唯愿当歌对酒时,月光常照金樽里


PHIÊN ÂM
Qīngtiān yǒu yuè lái jǐshí, wǒ jīn tíng bēi yī wèn zhī.
Rén pān míngyuè bùkě dé, yuè xíng què yǔ rén xiāng suí.
Jiǎo rú fēi jìng lín dān quē, lǜ yān miè jìn qīng huī fā.
Dàn jiàn xiāo cóng hǎishàng lái, níng zhīxiǎo xiàng yún jiān méi.
Bái tù dǎo yào qiū fù chūn, cháng'é gū qī yǔ shuí lín.
Jīn rén bùjiàn gǔ shí yuè, jīnyuè céngjīng zhào gǔrén.
Gǔrén jīn rén ruò liúshuǐ, gòng kàn míngyuè jiē rúcǐ.
Wéi yuàn dāng gē duì jiǔ shí, yuèguāng cháng zhào jīn zūn lǐ.

Bả tửu vấn nguyệt

Lý Bạch

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì ,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch nghĩa:

Nâng chén rượu hỏi trăng.

Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
--Bản dịch của Anh Nguyên--

Nâng rượu hỏi trăng

Trời xanh, trăng có bao lâu?
Nay ta ngừng chén, hỏi câu thế này!
Người vin trăng, chẳng được thay,
Trăng, đi, cứ vẫn theo ngay bên người.
Như gương, cung khuyết, đến nơi,
Khói xanh tan hết sáng ngời gương nga.
Đêm về, trên biển hiện ra,
Nào hay, mây sớm, trăng ngà lặn đâu.
Thu, Xuân, thỏ giã thuốc mầu,
Hằng-Nga lẻ bóng ai đâu ở gần?
Trăng xưa, ai thấy một lần,
Trăng nay, từng chiếu cổ nhân bao đời.
Xưa, nay, người giống nước trôi,
Cùng nhìn trăng sáng lưng trời thế thôi.
Mong khi uống rượu, ca vui,
Chén vàng, cứ chiếu sáng ngời ánh trăng...

Bản dịch của Trần Minh Tú

Vầng trăng có tự bao giờ
Ta nay ngưng chén bất ngờ hỏi thăm
Trăng kia đâu thể nắm cầm
Người đi trăng cứ lặng thầm đi theo
Cửa khuyết sáng tựa gương treo
Khói xanh tan hết trong veo giữa trời
Đêm đêm mọc phía biển khơi
Sớm sớm lặn giữa mây trời đi đâu
Thỏ ngọc giã thuốc từ lâu
Xuân thu mải miết ai hầu Thường Nga
Người nay đâu biết trăng (xưa) xa
Trăng nay lại biết người đà qui tiên
Cổ kim dòng chảy nối liền
Vẫn soi trăng đó ở miền tinh không
Vui ca cuộc rượu ngắm bông
Chỉ mong trăng mãi chiếu lồng chén đây

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số cách tính điện trở tương đương (sưu tầm)

Bài toán chuyển động trên một vòng tròn

Bài tập liên hệ giữa định luật bảo toàn công, động cơ nhiệt và công suất