TỪ Ô DẠ ĐỀ NGUYÊN TÁC: BẠCH CƯ DỊ



TỪ Ô DẠ ĐỀ
NGUYÊN TÁC: BẠCH CƯ DỊ

慈烏夜啼

慈烏失其母,
啞啞吐哀音,
畫夜不飛去,
經年守故林。
夜夜夜半啼,
聞者為沾襟;
聲中如告訴,
未盡反哺心。
百鳥豈無母,
爾獨哀怨深?
應是母慈重,
使爾悲不任。
昔有吳起者,
母歿喪不臨,
嗟哉斯徒輩,
其心不如禽!
慈烏復慈烏,
鳥中之曾參。

CHỮ GIẢN THỂ
慈乌夜啼

慈乌失其母,
哑哑吐哀音,
画夜不飞去,
经年守故林。
夜夜夜半啼,
闻者为沾襟;
声中如告诉,
未尽反哺心。
百鸟岂无母,
尔独哀怨深?
应是母慈重,
使尔悲不任。
昔有吴起者,
母殁丧不临,
嗟哉斯徒辈,
其心不如禽!
慈乌复慈乌,
鸟中之曾参。

PHIÊN ÂM
Cí wū yè tí

Cí wū shī qí mǔ,
Yāyā tǔ āi yīn,
Huà yè bù fēi qù,
Jīng nián shǒu gù lín.
Yè yè yèbàn tí,
Wén zhě wéi zhān jīn;
Shēng zhōng rú gàosu,
Wèi jìn fǎnbǔ xīn.
Bǎi niǎo qǐ wú mǔ,
Ěr dú āiyuàn shēn?
Yīng shì mǔ cí zhòng,
Shǐ ěr bēi bù rèn.
Xī yǒu wúqǐ zhě,
Mǔ mò sàng bù lín,
Jiēzāi sī tú bèi,
Qí xīn bùrú qín!
Cí wū fù cí wū,
Niǎo zhōng zhī zēngsh

ÂM HÁN VIỆT

TỪ Ô THẤT KÌ MẪU
Á Á THỔ AI ÂM
TRIÊU DẠ BẤT PHI KHỨ
KINH NIÊN THỦ CỐ LÂM
DẠ DẠ DẠ BÁN ĐỀ
VĂN GIẢ VI TRIÊM KHÂM
THANH TRUNG NHƯ CÁO TỐ
VI TẬN PHẢN BỘ TÂM
BÁCH ĐIỂU KHỞI VÔ MẪU?
NHĨ ĐỘC AI OÁN THÂM
ƯNG THỊ MẪU TỪ TRỌNG
SỬ NHỈ BI BẤT NHÂM
TÍCH HỮU NGÔ KHỞI GIẢ
MẪU MỘT TANG BẤT LÂM
TA TAI TƯ ĐỒ BỐI
KỲ TÂM BẤT NHƯ CẦM
TỪ Ô PHỤC TỪ Ô
ĐIỂU TRUNG CHÍ TĂNG SÂM

Dịch nghĩa:
quạ hiền mất mẹ,
Kêu lên quạ quạ, nghe thương tân
Sớm tối không bay đi xa
Quanh năm ở trong rừng cũ
Hằng đêm vào lúc nửa khuya thì kêu lên,
Người nghe lệ rơi ướt vạt áo
Tiếng kêu như bày tỏ nỗi niềm
Chưa hết lòng đền đáp công ơn nuôi dưỡng , mẹ cho bú mớm
Trăm loài chim chẳng lẽ không có mẹ?
Nhưng chỉ có quạ này là đau xót thảm thiết nhất
Có lẽ do lòng yêu thương của quạ mẹ lớn lao (ơn dày)
Khiến lòng buồn nhớ của quạ con khôn nguôi được
Xưa có ông Ngô Khởi,
Mẹ chết không về chịu tang
Than ôi! Cái hạng người ấy
Lòng dạ không bằng loài cầm kê
Quạ hiền hỡi quạ hiền
Mày là Tăng Sâm trong loài chim đó

CHÚ THÍCH VÀ TỪ VỰNG:
từ (14n) 1 : Lành, yêu rất mực. Cha mẹ yêu con gọi là từ. 2 : Người trên yêu kẻ dưới cũng gọi là từ. Chu cấp cứu giúp cho kẻ túng thiếu khốn cùng gọi là từ thiện sự nghiệp 慈善事業. 3 : Mẹ. Cha gọi là nghiêm , mẹ gọi là từ . Như gia từ 家慈, từ mẫu 慈母, v.v.

ô (10n) 1 : Con quạ, quạ con biết mớm quạ già cho nên sự hiếu dưỡng cha mẹ gọi là ô điểu chi tư 烏鳥之私. 2 : Sắc đen. Như ngựa đen gọi là ngựa ô, gà đen gọi là gà ô, v.v. 3 : Ô hô 烏乎 than ôi !

Nha nha 啞啞 tiếng chim kêu.

ai (9n) 1 : Thương. 2 : Không có mẹ gọi là ai. Kẻ để tang mẹ mà còn cha gọi là ai tử 哀子.

triêm, điếp (8n) 1 : Ðầm thấm. Như triêm nhiễm thị hiếu 沾染嗜好 tẩm nhiễm thói ham thích.

khâm (18n) 1 : Vạt áo, cổ áo.

bộ (10n) 1 : Mớm (chim mẹ mớm cho chim con). 2 : Nhai.

nhĩ (14n) 1 : Mày, ngươi.

歿 một (8n) 1 : Mất rồi, chết rồi.

tang, táng (12n) 1 : Lễ tang. Như cư tang 居喪 để tang, điếu tang 弔喪 viếng kẻ chết, v.v. 2 : Một âm là táng. Mất. Như táng minh 喪明 mù mắt, táng vị 喪位 mất ngôi, v.v.

cầm (13n) 1 : Loài chim. Như gia cầm 家禽.

Ngô Khởi: người nước Vệ , thời Xuân Thu, là một nhà quân sự có tài. Mẹ Chết không về chịu tang, giết vợ để được tin dùng. Sau bị giết chết ở Sở

Tăng Sâm: người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò của Khổng tử, thờ mẹ rất có hiếu

Dịch thơ Ngô Văn Phú

Con quạ hiền mất mẹ,
"Quạ quạ" kêu thiết tha.
Sớm tối, lỳ một chỗ,
Quanh năm trụ rừng già.
Nửa đêm kêu "quạ quạ",
Nghe mà nước mắt sa.
Kêu để mà tưởng nhớ,
Ơn bú mớm mẹ xưa.
Chim nào không có mẹ,
Riêng mày mãi xót xa.
Hẳn tình mẹ sâu nặng,
Quên làm sao nổi mà.
Chuyện cũ có Ngô Khởi,
Mẹ mất, không về nhà.
Buồn thay lũ người ấy,
So loài chim còn thua.
Quạ hiền! Quạ hiền thảo,
Ngang Tăng Sâm thuở xưa.

Dịch thơ Mai Lăng:

Quạ hiền kêu đêm

Quạ hiền sớm mất mẹ yêu
Tiếng kêu quạ quạ, nghe chiều thiết tha
Sớm hôm quạ chẳng đi xa
Quang năm rừng cũ, gần nhà mà thôi
Đêm đêm quạ khóc mồ côi
Người nghe, ai chẳng bồi hồi tâm can
Quạ con như oán như than
Công ơn bú mớm, bảo ban chưa đền
Chim nào chẳng có mẹ hiền
Nhưng sao đau xót chỉ riêng quạ này
Phải chăng quạ mẹ ơn dày
Quạ con nhớ mẹ, sớm chày khôn nguôi
Xưa ông Ngô Khởi là người
Không về tang mẹ, để đời than ta
Hạng này ngẫm lại xót xa
Làm người, mà những thua xa loài cầm
Quạ từ tâm, quạ từ tâm!
Loài chim có một Tăng Sâm là mày

Dịch thơ Trần Minh Tú
Con quạ hiền kêu đêm
Quạ hiền sớm mất mẹ thương
Kêu lên quạ quạ, tiếng thường thiết tha
Sớm tối chẳng muốn bay xa
Quanh năm ở chốn mẹ cha xưa còn
Nửa đêm kêu khóc mỏi mòn
Người nghe ướt áo, thấm hòn lệ rơi
Tiếng kêu như tỏ bao lời
Chưa trọn đền đáp một đời mẹ thương
Trăm chim có mẹ, lẽ thường
Nhưng thảm thiết nhất, quạ dường đau hơn
Phải chăng quạ mẹ dày ơn
Quạ con khó nén từng cơn nhói lòng
Xưa có Ngô Khởi, một ông
Mẹ già đã mất, tang không chịu về
Than ôi, hạng ấy đáng chê
Lòng dạ còn kém cầm kê đó mà
Quạ hiền ơi hỡi quạ à
Trong loài chim ấy mày là Tăng Sâm


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số cách tính điện trở tương đương (sưu tầm)

Bài toán chuyển động trên một vòng tròn

Tử Dạ thu ca子夜 秋歌-Nguyên tác: Lý Bạch李白