TRƯỜNG AN THU VỌNG (Bài này còn có tựa là Trường An Vãn Thu) NGUYÊN TÁC: TRIỆU HỖ




TR
ƯỜNG AN THU VỌNG (Bài này còn có tựa là Trường An Vãn Thu)
NGUYÊN TÁC TRIỆU HỖTriệu Hỗ (810-856) tự là Thừa Hựu, sinh quán ở huyện Sơn Dương, thuộc Sơn Ðông ngày nay. Tên ông cũng có khi đọc là Giả. Ngay khi còn bé, ông đã tỏ ra có biệt tài, từng làm khách Nguyên Chẩn lúc bấy giờ đang là Quan sát sứ tỉnh Chiết Ðông, rồi làm Tùng sự cho bạn của Ðỗ Mục là Thẩm Truyền Sư. Ðược Thẩm Truyền Sư mến mộ tài năng, năm mới 17 tuổi ông đã được cử làm Hương cống lên cư ngụ Trường An. Ở đây ông kết du rộng rãi với các văn nhân đương thời, thường chỉ suốt ngày “nghêu ngao vui thú yên hà.” Ông quen biết và đã từng thề thốt nặng lời với một ca kỹ, nhưng nàng này lại bị Tiết độ sứ của Chiết Tây cưỡng ép bắt đem về làm thiếp.

Vì thấy mình không thể đòi lại người ngọc nếu chẳng có công danh, Triệu quyết chí đi thi. Năm 32 tuổi, ông đậu tiến sĩ dưới triều Ðường Vũ Tông. Vừa mới biết mình đậu, mặc dù chưa có chức phận gì lớn lao, ông đã gởi ngay một bài tứ tuyệt cho viên Tiết độ sứ kia:

Tịch mịch đường tiền xuân hựu huân
Dương đài khứ hậu bất quy vân
Ðương thời văn thuyết Sa Tra Lợi
Kim nhật thanh nga chúc sứ quân

Hiu quạnh nhà không xuân lại tươi
Mây mưa biệt hẳn chốn Dương đài
Từng nghe kể chuyện Sa Tra Lợi
Người đẹp ngày nay đã thuộc ai
(Ðỗ Bằng Ðoàn dịch)

Viên Tiết độ sứ kia chẳng biết vì thẹn hay vì sợ, vội trả ngay người ngọc về cho Triệu. Hai người gặp nhau ngay trên đường Triệu vinh quy, người con gái khóc lóc thảm thiết rồi chết. Triệu mai táng nàng ngay chỗ họ gặp lại nhau.

Sau khi đậu tiến sĩ, Ðường Vũ Tông có ngày hỏi đến thơ của Triệu. Ông dâng lên vài bài trong đó có bài Ðề Tần hoàng. Nhà vua đọc tới hai câu "đồ tri lục quốc tùy cân phủ, mạc hữu quần nho định thị phi" nghĩ rằng Triệu luận cổ suy kim nên tỏ ý không ưa thích. Có lẽ vì lý do này mà đường công danh của Triệu rất lận đận, mãi đến năm 42 tuổi, tức là 10 năm sau khi thi đậu, mới được bổ làm một chức quan nhỏ ở Vị Nam. Ông mất không lâu sau đó.

Thơ Triệu phần lớn có nội dung nhớ nhung quê hương, buồn bã đường công danh, hoặc để thù tiếp với bạn bè. Ðỗ Mục đọc bài Trường An thu vọng của ông rất thích hai câu "tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái, trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu" cứ ngâm nga mãi và gọi luôn Triệu là Triệu Ỷ Lâu.
长安秋望

赵嘏

云物凄清拂曙流, 汉家宫阙动高秋。
残星几点雁横塞, 长笛一声人倚楼。
紫艳半开篱菊静, 红衣落尽渚莲愁。
鲈鱼正美不归去, 空戴南冠学楚囚。

CHỮ PHỒN THỂ

長安秋望

趙嘏

雲物淒清拂曙流, 漢家宮闕動高秋。
殘星幾點雁橫塞, 長笛一聲人倚樓。
紫艷半開籬菊靜, 紅衣落盡渚蓮愁。
鱸魚正美不歸去, 空戴南冠學楚囚。

PHIÊN ÂM

Cháng'ān qiū wàng

Zhào gǔ

Yún wù qīqīng fú shǔ liú, hàn jiā gōngjué dòng gāo qiū.
Cán xīng jǐ diǎn yàn héng sāi, chángdí yī shēng rén yǐ lóu.
Zǐ yàn bànkāi lí jú jìng, hóng yī luò jǐn zhǔ lián chóu.
Lúyú zhèngměi bù guī qù, kōng dài nán guān xué chu qiú.

ÂM HÁN VIỆT

Vân vật thê thanh phất thử lưu, hán gia cong khuyết động cao thu
Tàn tinh kỉ điểm nhạn hoành tái, trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu
Tử diệm bán khai li cúc tĩnh, hồng y lạc tận chử liên sầu
Lư ngư chính mỹ bất quy khứ, không tải nan quan học Sở tù

CHÚ THÍCH VÀ TỪ VỰNG

triệu (14n) 1 : Nước Triệu. 2 : Họ Triệu.
hỗ (14n) 1 : Phúc, chúc mừng lễ thọ gọi là chúc hỗ 祝嘏.
thê, thiến (11n) 1 : Lạnh lẽo, rét mướt. 2 : Cùng khổ, cùng khổ hiu quạnh gọi là thê lương 淒涼.
phất, bật, phật (8n) 1 : Phẩy quét. Như phất trần 拂塵 quét bụi. 2 : Phẩy qua. Như xuân phong phất hạm 春風拂檻 gió xuân phẩy qua chấn song. 3 : Nghịch lại, làm trái. 4 : Phất tử 拂子 cái phất trần. 5 : Ðánh. 6 : Rũ. Như phất y 拂衣 rũ áo.
thự (18n) 1 : Rạng đông, sáng.
khuyết (18n) 1 : Cái cổng hai từng. Làm hai cái đai ngoài cửa, trên làm cái lầu, ở giữa bỏ trống để làm lối đi gọi là khuyết, cho nên gọi cửa to là khuyết. Cũng có khi gọi là tượng nguỵ 象魏. Ngày xưa hay làm sở ban bố pháp lệnh ở ngoài cửa cung, cho nên gọi cửa cung là khuyết. Như phục khuyết thướng thư 伏闕上書 sụp ở ngoài cửa cung mà dâng thư.

tàn (12n) 1 : Tàn ác, tàn hại. 2 : Tàn, cái gì dùng rồi còn thừa lại gọi là tàn. Như tàn bôi 殘杯 chén rượu thừa (tiệc đã tàn), tàn dạ 殘夜 đêm tàn, nghĩa là chỉ còn một chút nữa thì sáng. 3 : Thiếu, người không đủ các chi thể gọi là tàn tật 殘疾. 4 : Giết.

hoành, hoạnh, quáng (16n) 1 : Ngang, trái với tiếng dọc. Ðời Chiến quốc có nhà học về lối kết liên sáu nước để chống với nước Tần gọi là tung hoành gia 縱橫家.

địch (11n) 1 : Cái sáo. Ðời sau gọi thứ sáo thổi dọc là cái tiêu , thứ thổi ngang là địch . Nguyễn Du 阮攸 : Ðoản địch thanh thanh minh nguyệt trung 短笛聲聲明月中 sáo vẳng từng hồi dưới sáng trăng.

 tái. Chỗ canh phòng ở nơi ngoài ven nước gọi là tái. Bên Tàu từ ngoài tràng thành trở ra gọi là tái thượng 塞上.

diễm (24n) 1 : Cùng nghĩa với chữ diễm hay .
diễm (19n) 1 : Sắc người đẹp, tươi sáng. Cùng nghĩa với chữ diễm .

li (24n) 1 : Bờ rào, bờ giậu, đan tre chắn lũy xung quanh gọi là li. Ðào Uyên Minh 陶淵明 : Thải cúc đông li hạ, du nhiên kiến nam sơn 採菊東籬下,悠然見南山 hái cúc dưới bờ rào đông. Nhàn nhã nhìn núi nam.

tĩnh (16n) 1 : Tĩnh , trái lại với động . Phàm vật gì không hiện hẳn cái công tác dụng của nó ra đều gọi là tĩnh. Nhà Phật có môn tham thiền, cứ ngồi yên lặng, thu nhiếp cả tinh thần lại không tư lự gì để xét tỏ chân lý gọi là tĩnh. Tống nho cũng có một phái dùng phép tu này gọi là phép chủ tĩnh 主靜. 2 : Yên tĩnh, không có tiếng động.

chử (12n) 1 : Bãi nhỏ.

lư (27n) 1 : Cá lư. Cổ nhân gọi là ngân lư 銀鱸 hay ngọc hoa lư 玉花鱸. Xuất sản ở Tùng Giang gọi là tứ tai lư 四鰓鱸 là một giống cá rất ngon.

tù (5n) 1 : Bỏ tù, bắt người có tội giam lại gọi là tù, người có tội cũng gọi là tù.

1)云物:指天空中的云雾: vân vật: chỉ mây mù giữ không trung 拂曙:拂晓: bình minh
2)高秋:深秋 cao thu: thâm thu
3)横塞:越过关塞 hoành tái: vượt qua quan tái (biên giới, quan ải)
4)篱菊:篱笆 ((10n) 1 : Tre gai, thứ tre có gai giồng làm bờ rào. Tục gọi bờ rào là ly ba 籬笆.)旁的菊花: hoa cúc mọc cành bờ rào

5)红衣:指红色的莲花瓣: hồng y: chỉ sắc hồng của cánh hoa sen
6)渚莲:水中州渚上长的莲。Sen mọc trong nước trên bãi đất nhỏ
7)鲈鱼正美:西晋齐王司马冏执政时,张翰(字季鹰)为大司马东曹掾。他预知司马冏将败,又因秋风起,想念故乡苏州莼菜鲈鱼脍的美味,便弃官回家。不久司马冏果然被杀。事见《晋书·张翰传》。后来这个故事就被用来表示思乡之情
8)南冠:楚冠。Nam quan : Sở Quan

DỊCH NGHĨA
  秋天拂晓时,天上的云雾都带着曙光将出的寒意

Trời thu lúc bình minh, mây mù trên trời đều mang theo ánh rạng đông lạnh lẽo
唐朝的宫殿的周围呈现出深秋的景象
Xung quanh cung điện nhà Đường hiện ra khung cảnh đặc trưng của mùa thu
残星几点, 群雁从塞外飞来,有人倚楼吹着长笛,曲调悠扬婉转
Một  vài ngôi sao còn sót lại, đàn nhạn từ bên ngoài biên ải bay đến,  có người đang tự lầu thổi trường địch, giai điệu du dương uyển chuyển
篱边半开的菊花呈现出紫艳之色,静悄悄的,水面的莲花凋零,红衣尽卸
Hoa cúc (nở một nửa) bên hàng rào khoe ra sắc tím kiều diễm trong không gian tĩnh lặng, trên mặt nước hoa sen điêu linh (rời rạc và tàn tạ), cánh hoa sen sắc hồng đã rụng hết
家乡的鲈鱼正美,但自己不能回 去,却要像钟仪那样戴着南冠,学着楚囚的样儿羁留他乡。
Cá lư ở quê nhà đang lúc ngon nhất, nhưng bản thân không thể quay về, ….không khác gì Chung Nghi đội mũ phương Nam,  học theo người tù nước Sở đang ở đất khách quê người

DỊCH THƠ TRẦN MINH TÚ
Mùa thu ở Trường An trông ngóng về quê nhà


Mây mù lạnh lẽo bình minh
Cảnh thu sâu sắc ngoài dinh Hán kìa
Tựa lầu ai thổi sáo kia
Sao tàn vài đốm, nhạn lìa ải quan
Bãi sen, sắc thắm úa tàn
Bên rào thing lặng, cúc đang tía mầu
Lư ngon, về có được đâu
Học tù Sở đó, đội đầu mũ Nam


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một số cách tính điện trở tương đương (sưu tầm)

Bài toán chuyển động trên một vòng tròn

Tử Dạ thu ca子夜 秋歌-Nguyên tác: Lý Bạch李白